Shin Seiki Evangelion
| Shin Seiki Evangerion | |
| 新世紀エヴァンゲリオン (Shin Seiki Evangerion) | |
|---|---|
| Thể loại | |
| Sáng tác | Gainax[a] |
| Anime truyền hình | |
| Đạo diễn | Anno Hideaki |
| Sản xuất |
|
| Âm nhạc | Shirō Sagisu |
| Hãng phim |
|
| Cấp phép |
|
| Kênh gốc | TXN (TV Tokyo) |
| Phát sóng | 4 tháng 10 năm 1995 – 27 tháng 3 năm 1996 |
| Số tập | 26 |
| Manga | |
| Light novel | |
| Anime điện ảnh | |
| |
Shin Seiki Evangelion (Nhật: 新世紀エヴァンゲリオン n.đ. 'Tân Thế kỷ Evangelion' trong tiếng Nhật và n.đ. 'Phúc âm của Kỷ nguyên Mới' trong tiếng Hy Lạp), còn được rút gọn là Evangelion hoặc Eva, là một bộ anime truyền hình do Gainax và Tatsunoko Production hợp tác sản xuất, đồng thời do Anno Hideaki làm đạo diễn. Phim được phát sóng trên TV Tokyo và các đài liên kết từ tháng 10 năm 1995 đến tháng 3 năm 1996. Nội dung phim lấy bối cảnh mười lăm năm sau một thảm họa toàn cầu tại thành phố kiên cố tương lai Tokyo-3, theo chân cậu thiếu niên Ikari Shinji. Cậu được Ikari Gendō – cha mình tuyển dụng vào tổ chức bí ẩn Nerv. Shinji phải điều khiển Evangelion – một cỗ máy khổng lồ cơ sinh học, để chiến đấu với những sinh vật được gọi là Angel.
Bộ phim là một tác phẩm giải cấu trúc (deconstruction) của thể loại mecha, đi sâu khám phá những trải nghiệm, cảm xúc và sức khỏe tinh thần của các phi công Evangelion cùng thành viên Nerv. Họ được kêu gọi để thấu hiểu nguyên nhân tối thượng của các sự kiện và động cơ đằng sau hành động của con người. Tác phẩm sử dụng hình ảnh nguyên mẫu bắt nguồn từ vũ trụ học Thần đạo và các tôn giáo-truyền thống thần bí Do Thái-Kitô giáo, bao gồm những câu chuyện của Midrash và Kabbalah.[7] Những diễn giải phân tâm học về hành vi con người của Sigmund Freud và Carl Jung cũng là những chủ đề nổi bật trong tác phẩm.[8][9]
Shin Seiki Evangelion được đánh giá rộng rãi là một trong những bộ anime truyền hình vĩ đại nhất mọi thời đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành công nghiệp anime. Tuy nhiên, hai tập cuối của bộ phim đã gây ra tranh cãi khi nhiều khán giả cảm thấy cái kết khó hiểu và trừu tượng. Năm 1997, Gainax phát hành bộ phim điện ảnh Shin Seiki Evangelion Gekijō-ban: Ea/Magokoro o, Kimi ni do Anno đạo diễn kiêm đồng kịch bản – đóng vai trò như một kết thúc thay thế. Một loạt bốn phim điện ảnh mang tên Evangerion Shin Gekijō-ban kể lại các sự kiện của loạt phim với những yếu tố cốt truyện khác và kết thúc mới, được phát hành từ năm 2007 đến 2021. Các sản phẩm trong thương hiệu Evangelion như phim điện ảnh, manga, ấn phẩm video gia đình và mặt hàng khác đã đạt doanh số kỷ lục tại thị trường Nhật Bản và bán chạy mạnh ở thị trường nước ngoài, với mặt hàng liên quan thu về hơn 150 tỷ yên Nhật (tính đến năm 2007) và máy pachinko Evangelion tạo ra 700 tỷ yên Nhật (tính đến năm 2015).
Cốt truyện
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2015, 15 năm sau thảm họa toàn cầu mang tên Second Impact, cậu thiếu niên Ikari Shinji được người cha xa lánh Ikari Gendō (giám đốc tổ chức bán quân sự đặc biệt Nerv) triệu tập tới thành phố tương lai Tokyo-3. Shinji chứng kiến lực lượng Liên Hợp Quốc chiến đấu với một sinh vật khổng lồ tên là Sachiel (một trong những thực thể quái vật được gọi là Angel) – sự thức tỉnh của chúng đã được tiên tri trong Các cuộn sách Biển Chết. Do các Angel sở hữu lực lượng phòng thủ gần như bất khả xâm phạm mang tên Absolute Terror Fields hay viết tắt là AT Fields, những cỗ máy cơ-sinh học Evangelion của Nerv (vốn được đồng bộ hóa với hệ thần kinh của người điều khiển và sở hữu lực lượng phòng thủ riêng) trở thành vũ khí duy nhất có khả năng chống lại và tiêu diệt Angel. Sĩ quan Nerv – Katsuragi Misato đưa Shinji vào khu phức hợp Nerv bên dưới Tokyo-3, tại đây Gendō ép cậu điều khiển Evangelion Unit-01 để chiến đấu với Angel. Do không được huấn luyện, Shinji không thể tiêu diệt nó và Unit-01 bị tổn thương ở phần đầu. Do sự đồng bộ hóa hệ thần kinh, Shinji bị choáng ngợp bởi cơn đau và mất đi ý thức, khiến Evangelion trở nên điên cuồng và tự mình tàn sát Angel.
Sau khi nhập viện, Shinji chuyển đến sống cùng Misato và ổn định cuộc sống tại Tokyo-3. Trong trận chiến thứ hai, Shinji đánh bại Angel Shamshel nhưng sau đó bỏ chạy trong tình trạng đau khổ. Misato đối chất với Shinji và cậu quyết định tiếp tục làm phi công. Shinji và đội ngũ Nerv phải đánh bại 14 Angel còn lại để ngăn chặn Third Impact – một thảm họa toàn cầu có thể hủy diệt thế giới. Evangelion Unit-00 được sửa chữa ngay sau đó và Shinji cố gắng kết bạn với người điều khiển nó là Ayanami Rei – một thiếu nữ bí ẩn và cô lập với xã hội. Với sự giúp đỡ của Rei, Shinji đánh bại Angel Ramiel. Gia nhập cùng với họ là Sōryū Asuka Langley – người điều khiển Evangelion Unit-02 và là một thiếu niên người Đức-Nhật-Mỹ đa tài và nóng tính. Cả ba cùng nhau đánh bại nhiều Angel và khi Shinji thích nghi với vai trò phi công mới, cậu dần trở nên tự tin và vững vàng hơn. Asuka chuyển đến sống cùng Shinji và họ phát triển một mối quan hệ phức tạp với nhau, bao gồm sự thu hút tình cảm lẫn lộn và một nụ hôn do Asuka chủ động.
Sau khi bị Angel Leliel hấp thụ, Shinji giải thoát nhờ Eva-01 tự động hành động. Sau đó, cậu buộc phải chiến đấu với Evangelion Unit-03 bị nhiễm xấu, khiến Suzuhara Tōji (người bạn cùng lớp Shinji và người điều khiển Unit-03) mất khả năng chiến đấu và tàn tật vĩnh viễn. Asuka đánh mất sự tự tin sau một trận thua và rơi vào trầm cảm, tình hình càng trầm trọng hơn khi cô phải đối mặt với Angel Arael. Arael tấn công tâm lý cô, buộc cô phải sống lại những nỗi sợ kinh hoàng nhất và chấn thương thời thơ ấu, dẫn đến suy sụp tinh thần. Trong trận chiến tiếp theo, Rei hy sinh tự hủy Unit-00 để cứu Shinji. Misato và Shinji tới bệnh viện thăm Rei. Cô bé vẫn còn sống nhưng tự nhận mình là "Rei thứ ba". Misato buộc nhà khoa học Akagi Ritsuko tiết lộ những bí mật đen tối của Nerv: nghĩa địa Evangelion, hệ thống Dummy Plug vận hành bằng các bản sao của Rei. Cô bé được tạo ra từ DNA của Ikari Yui (mẹ của Shinji). Chuỗi sự việc này khiến Shinji bị tổn thương tâm lý và xa lánh những nhân vật còn lại. Nagisa Kaworu thay thế Asuka (đang trong trạng thái trầm cảm) điều khiển Unit-02 và kết bạn với Shinji, giành được sự tin tưởng của cậu. Cậu ta được tiết lộ là Tabris (Angel cuối cùng được tiên tri) và khi chiến đấu với Shinji, nhận ra mình phải chết để nhân loại tồn tại. Kaworu yêu cầu Shinji giết mình và dù do dự, Shinji cuối cùng vẫn ra tay – sự kiện khiến cậu ngập tràn cảm giác tội lỗi.
Sau khi Angel cuối cùng bị tiêu diệt, Gendō kích hoạt "Dự án Hoàn thiện Con người" (Human Instrumentality Project) – một sự tiến hóa cưỡng ép để các linh hồn nhân loại hợp nhất vì mục đích nhân đạo. Ông tin rằng nếu được thống nhất, nhân loại có thể vượt qua sự cô đơn và xa lánh vốn đã ám ảnh họ từ ngàn xưa. Linh hồn Shinji vật lộn với lý do tồn tại của chính mình và trải qua một sự giác ngộ: cậu cần người khác để phát triển và chấp nhận bản thân bằng cách nhìn thấy một phiên bản Shinji tiềm năng trong thực tại khác. Điều này cho phép cậu phá vỡ bức tường cảm xúc tiêu cực đang dày vò mình và hòa nhập với những người khác, và họ lên tiếng chúc mừng cậu.
Nhân vật
[sửa | sửa mã nguồn]Trong quá trình phát triển Evangelion, Anno Hideaki đã cố gắng tạo ra những nhân vật phản ánh các phần trong tính cách của chính ông.[10] Các nhân vật trong Evangelion vật lộn với các mối quan hệ giữa cá nhân, vấn đề cá nhân[11] và các sự kiện tổn thương tâm lý trong quá khứ của họ.[12][13] Phẩm chất của các nhân vật đã tạo điều kiện cho một số khán giả của phim xác định với các nhân vật ở cấp độ cá nhân, trong khi những khán giả khác giải thích họ là những biểu tượng lịch sử, tôn giáo hoặc triết học.[14]
Ikari Shinji là nhân vật chính của loạt phim và được chỉ định là người điều khiển Evangelion Unit-01. au khi chứng kiến cái chết của mẹ mình (Ikari Yui) khi còn nhỏ, Shinji bị người cha Ikari Gendō bỏ rơi. Cậu là người nhạy cảm về mặt cảm xúc và đôi khi làm theo những gì được mong đợi vì sợ bị từ chối, nhưng cậu cũng thường nổi loạn và từ chối điều khiển Eva vì những tổn hại nghiêm trọng đã gây ra cho cậu hoặc bạn bè của cậu. Trong suốt loạt phim, cậu tự nhủ "mình không được chạy trốn" như một cách khuyến khích bản thân đối mặt với mối đe dọa sắp xảy ra và điều này đôi khi thực sự mang lại cho cậu sự dũng cảm trong trận chiến. Tuy nhiên, cậu vẫn còn thói quen thu mình lại để phản ứng với các sự kiện chấn thương. Anno đã mô tả Shinji như một cậu bé "co rúm lại trước sự tiếp xúc của con người" và "tự thuyết phục bản thân rằng mình là một người hoàn toàn không cần thiết".[15]
Ayanami Rei là người điều khiển Evangelion Unit-00 trầm lặng và bí ẩn. Cô bé là một bản sao được tạo ra từ phần hài cốt được thu hồi của Yui và bị ám ảnh bởi cảm giác giá trị bản thân tiêu cực xuất phát từ nhận thức rằng cô là một tài sản có thể hy sinh.[16] Ban đầu, cô ghét Shinji vì thiếu sự tin tưởng vào cha mình (Gendō) – người mà Rei rất thân thiết. Tuy nhiên, sau khi Shinji và Rei cùng nhau đánh bại Angel Ramiel, cô bắt đầu có thiện cảm và thân thiện với cậu. Đến cuối bộ phim, hóa ra cô chỉ là một trong nhiều bản sao, được sử dụng để thay thế Rei hiện tại nếu cô bị giết.
Sōryū Asuka Langley là thần đồng điều khiển Evangelion Unit-02, sở hữu tính khí nóng nảy cùng sự kiêu hãnh và tự tin thái quá – những điều thường khiến cô gặp rắc rối và khó khăn, đặc biệt trong các trận chiến. Khi còn nhỏ, Asuka phát hiện thi thể mẹ mình ngay sau khi bà tự sát, khiến đứa trẻ kìm nén cảm xúc và thề sẽ không bao giờ khóc. Asuka và Shinji phát triển những tình cảm mãnh liệt nhưng mơ hồ dành cho nhau và gặp khó khăn trong việc kết nối với người khác. Mối quan hệ của họ ban đầu được mô phỏng theo mối quan hệ giữa Jean – người tình và sau là chồng của Nadia trong bộ anime cùng tên trước đó.[17] Tương tự như Shinji, Asuka và Rei được khắc họa với những khiếm khuyết riêng và khó khăn trong việc liên hệ với người khác.[18]
Katsuragi Misato là người giám hộ và chỉ huy của Shinji và Asuka.[19] Tác phong chuyên nghiệp của cô tại Nerv tương phản mạnh mẽ với hành vi vô tư và thiếu trách nhiệm khi ở nhà. Nhà thiết kế nhân vật Sadamoto Yoshiyuki hình dung cô như một "cô gái nhà bên" (girl next door) lớn tuổi và kẻ thất bại phóng đãng không biết coi trọng cuộc sống.[17] Anno Hideaki miêu tả Shinji và Misato là những người "sợ bị tổn thương" và "không phù hợp – thiếu thái độ tích cực – so với những gì mọi người gọi là anh hùng trong một cuộc phiêu lưu."[15]
Các thiếu niên điều khiển Evangelion nhận lệnh chiến đấu từ Ikari Gendō – người cha lạnh lùng của Shinji và là chỉ huy trưởng của Nerv. Ông đã bỏ rơi Shinji và chỉ triệu tập cậu trở lại để phục vụ với tư cách là phi công Evangelion. Gendō đã thu hồi phần hài cốt của người vợ quá cố để tạo ra Rei, người mà ông xem như một công cụ phục vụ mục đích đánh bại Angels và thực hiện Dự án Công cụ Nhân loại. Tương tự như Shinji, ông có phần khép kín và sợ bị người khác xúc phạm, thường chạy trốn khỏi những tình huống đó bằng cách phạm phải những hành động vô đạo đức. Nỗi sợ này cũng chính là thứ khiến ông bỏ rơi Shinji. Ông được miêu tả là không khoan nhượng trong nỗ lực chiến thắng, một người "sử dụng các biện pháp quyết liệt và cực đoan bằng mọi cách thức dù công bằng hay gian trá, để đạt được mục đích của riêng mình."[20] Theo nhà thiết kế nhân vật Sadamoto Yoshiyuki, các nhân vật Gendō và Fuyutsuki được xây dựng dựa trên Ed Straker và Alec Freeman của bộ phim truyền hình UFO.[17] Sadamoto thiết kế ngoại hình của các nhân vật sao cho tính cách của họ "có thể được hiểu ít nhiều chỉ trong một cái nhìn".[21] Sức hấp dẫn thẩm mỹ đặc biệt trong thiết kế của các nhân vật nữ chính đã góp phần làm tăng doanh số bán hàng của thương hiệu Shin Seiki Evangelion. Đặc biệt, thiết kế của Rei trở nên phổ biến đến mức giới truyền thông gọi nhân vật này là "Premium Girl" (Cô gái Cao cấp) do doanh số bán sách có hình Rei trên bìa đạt mức rất cao.[22]
Sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Đạo diễn Anno Hideaki rơi vào trầm cảm sau khi hoàn thành tác phẩm Fushigi no Umi no Nadia[23] và thất bại của Uru in Blue (1992) – dự án phần tiếp theo của Ōritsu Uchūgun: Oneamisu no Tsubasa.[24] Theo Takeda Yasuhiro – đạo diễn kiêm đồng sáng lập Gainax, sau thất bại của Uru in Blue, Anno đồng ý hợp tác giữa King Records và Gainax trong lúc uống rượu với Ōtsuki Toshimichi (đại diện của King).[25] King Records cam kết dành cho Anno một khung giờ phát sóng cho "bất cứ thứ gì".[26] Anno bắt đầu phát triển bộ phim dài tập mới vào năm 1993 xoay quanh ý tưởng "không chạy trốn" – chủ đề nền tảng của Uru in Blue, tập trung vào một nhân vật chính quen với việc trốn tránh trách nhiệm cá nhân nhưng lại phải cố gắng cứu nữ chính của câu chuyện.[27] Ngay từ đầu sản xuất, ông tuyên bố mục đích là muốn Evangelion gia tăng số lượng người hâm mộ anime (được gọi là otaku trong tiếng Nhật) và thu hút sự quan tâm đến phương tiện anime,[28] đồng thời mang làn gió mới đến thể loại. Trong giai đoạn thiết kế ban đầu của dự án Evangelion, nhiều định dạng đã được cân nhắc thực hiện bao gồm phim điện ảnh, loạt phim truyền hình và bộ OVA. Cuối cùng nhà sản xuất chọn định dạng truyền hình vì đây là phương tiện tiếp cận rộng rãi nhất tại Nhật Bản thời điểm đó.[17] Ban đầu Anno còn đề xuất đặt tên Alcion cho tác phẩm mới, nhưng bị từ chối do thiếu phụ âm mạnh.[17] Ông xây dựng bộ phim như một ẩn dụ về bốn năm trầm cảm của chính mình, khi cố gắng đặt toàn bộ bản thân và in dấu cảm xúc cá nhân vào tác phẩm.[15][29]
Các nhà phê bình ghi nhận cách Evangelion vay mượn một số tình huống và sử dụng phép hướng nội như một phương tiện kể chuyện (narrative device) từ bộ OVA Gunbuster – dự án trước của Anno.[30] Anno cũng kết hợp cấu trúc kể chuyện của Nadia và đa hệ quy chiếu, khiến câu chuyện mở ra cho nhiều cách diễn giải khác nhau.[31] Quá trình sản xuất phức tạp và chứng kiến nhiều thay đổi so với kịch bản ban đầu do Gainax phác thảo. Ban đầu Anno đề xuất nhân vật chính là nữ, nhưng ý tưởng bị nhà thiết kế nhân vật Sadamoto Yoshiyuki bác bỏ do cho rằng nhân vật nam chính sẽ giúp thể loại mecha trở nên đáng tin hơn.[17] Trong kịch bản đầu tiên, tập một mô tả trận chiến giữa một Angel và Rei, trong khi nhân vật Shinji chỉ xuất hiện sau khi Angel bị đánh bại tạm thời.[32] Nhiều thay đổi khác về cốt truyện được thực hiện sau vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo của giáo phái Aum Shinrikyo vào tháng 3. Nhà phê bình văn hóa Azuma Hiroki nhận định câu chuyện Evangelion gốc "quá gần với thực tế" từ góc nhìn của Anno. Anno cho rằng kịch bản gốc không phù hợp để phát sóng và lo sợ kiểm duyệt. Tuy nhiên, ông cũng chỉ trích Aum Shinrikyo vì "họ đã đánh mất mọi kết nối với thực tế". Vì lý do này, Azuma tuyên bố Evangelion "là một lời phê phán nội tại đối với Aum".[28]
Phiên bản cuối cùng của câu chuyện phản ánh nguồn cảm hứng từ nhiều anime và phương tiện truyền thông khác.[33] Nổi bật trong số này là Uchū Senkan Yamato,[34] Kidō Senshi Gundam,[35][36] Devilman[37][38] và Densetsu Kyojin Ideon.[39][40] Bộ phim cũng kết hợp các chi tiết tri ân đến Childhood's End,[41] loạt tiểu thuyết của Murakami Ryu,[33][42] The Andromeda Strain, The Divine Invasion, bài thơ Pippa Passes,[43] The Hitcher và một số phim truyền hình như The Prisoner, Thunderbirds, Ultraman[33][44] và Ultraseven.[45]
Quá trình phát triển Shin Seiki Evangelion liên tục sát hạn chót trong suốt thời gian sản xuất. Hai tập đầu tiên được chiếu tại lễ hội Gainax lần thứ hai vào tháng 7 năm 1995, chỉ ba tháng trước khi phát sóng trên truyền hình.[46] Đến tập thứ 13 – "Shito, shinnyū", tác phẩm bắt đầu đi chệch đáng kể so với cốt truyện gốc và dự án ban đầu bị bãi bỏ. Số lượng Angel giảm từ 28 xuống còn 17. Các biên kịch cũng thay đổi kết thúc truyện – vốn ban đầu mô tả sự thất bại của Dự án Công cụ Nhân loại sau cuộc tấn công từ Mặt Trăng của Angel.[32][47] Không chỉ gặp vấn đề về lịch trình, theo Anno, dù Gainax là hãng sản xuất chính của loạt phim, công ty này không có đủ trang thiết bị và nhân sự để sản xuất trọn vẹn bộ phim. Chỉ có ba nhân viên từ Gainax thực hiện bộ phim tại bất kỳ thời điểm nào, và phần lớn quá trình sản xuất được thuê ngoài cho Tatsunoko Production.[48]
Bắt đầu từ tập 16 – "Shi ni itaru yamai", phim có sự thay đổi mạnh mẽ, loại bỏ cốt truyện lớn về sự cứu rỗi để chuyển sang khám phá tâm lý phức tạp của các nhân vật chính.[49][50] Thay đổi này trùng với việc Anno phát triển sự quan tâm đến tâm lý học sau khi được bạn cho mượn sách về bệnh tâm thần.[51] Sự tập trung này đạt đỉnh điểm ở hai tập cuối được quay từ góc nhìn hoàn toàn nội tâm.[11] Do bắt buộc, Anno phải bỏ kịch bản tập 25 để làm việc với kịch bản mới.[52] Các tập này sử dụng nhiều hoạt họa trừu tượng,[53] cảnh hồi tưởng,[54] hình vẽ đơn giản, ảnh tĩnh và cảnh hình ảnh tĩnh lồng thoại thuyết minh.[55] Một số nhà phê bình suy đoán rằng những lựa chọn hoạt họa phi truyền thống này là do cắt giảm kinh phí,[56] song Okada Toshio khẳng định không chỉ là vấn đề lịch trình hay kinh phí, vì Anno "không thể quyết định kết thúc cho đến khi thời điểm tới. Đó là phong cách của anh ấy".[57] Hai tập này đã gây tranh cãi và chỉ trích trong cả giới hâm mộ lẫn nhà phê bình.[58] Năm 1997, Anno và Gainax đã phát hành hai phim điện ảnh hoạt hình để cung cấp kết thúc khác cho loạt phim, mang tên Shi to Shinsei và Ea/Magokoro o, Kimi ni – trong đó phần sau có kết thúc mang tính truyền thống hơn dựa trên cốt truyện.[59]
Chủ đề
[sửa | sửa mã nguồn]Các khảo chỉ về truyền thống thần bí trong Do Thái giáo và Kitô giáo (gồm văn học Midrash Và Kabbalah) được đan xen tự do trong suốt bộ phim.[60] Nhằm làm phức tạp hóa nỗ lực diễn giải rõ ràng của người xem,[61] tác phẩm tái hiện các câu chuyện Midrash, hình ảnh Zohar và các ý tưởng Kabbalah khác được phát triển từ Sách Sáng Thế[62] để tạo ra một thần thoại đặc trưng của Evangelion.[61] Cốt truyện cũng kết hợp các yếu tố của thuyết bí truyền và thần bí của Kabbalah Do Thái,[63][64] bao gồm các Angel – vốn có những đặc điểm chung và riêng biệt với các thiên thần trong truyền thống tôn giáo,[65] như Sachiel, Sandalphon và Ramiel.[66][67] Phó đạo diễn Tsurumaki Kazuya tuyên bố các khảo chỉ hình ảnh tôn giáo nhằm làm cho bộ phim trở nên "thú vị" và "kỳ lạ" hơn với khán giả Nhật Bản,[68] đồng thời phủ nhận sự tồn tại của ý nghĩa tôn giáo trong việc sử dụng các biểu tượng hình ảnh Kitô giáo trong phim.[69] Theo Anno: "khi các biểu tượng được trộn lẫn với nhau, lần đầu tiên những thứ như mối quan hệ tương hỗ hoặc ý nghĩa xuất hiện".[70]
Theo Patrick Drazen, vô số chi tiết ám chỉ đến Kojiki và Nihongi đóng vai trò nổi bật trong Evangelion, cùng với tầm nhìn của Thần đạo về vũ trụ nguyên thủy và những ngọn thương thần thoại của các vị thần Thần đạo Izanagi và Izanami. Các yếu tố của truyền thống Do Thái-Kitô giáo cũng xuất hiện nổi bật xuyên suốt bộ phim, bao gồm các ám chỉ đến Adam, Lilith, Eve, Ngọn giáo Longinus,[71] Các cuộn sách Biển Chết,[72] khái niệm về Adam Kadmon của Kabbalah và Cây Sự sống. Việc hợp nhất tất cả linh hồn con người thành một thông qua Dự án Công cụ Nhân loại ở cuối bộ phim đã được so sánh với khái niệm tikkun olam của Kabbalah.[73] Các Evangelion đã được ví như golem trong văn hóa dân gian Do Thái,[45] còn thiết kế hình ảnh của chúng tương đồng với những mô tả truyền thống về oni – các ác quỷ hoặc yêu tinh Nhật Bản.[74]
Shin Seiki Evangelion đã được diễn giải như một biểu hiện cá nhân sâu sắc về sự vật lộn với chứng trầm cảm của chính Anno Hideaki.[45] Trong quá trình sản xuất bộ phim, ông đã trở nên quan tâm đến bệnh tâm thần và tâm lý học.[51] Theo ông, Rei là một nhân vật tâm thần phân liệt[75] và một đại diện cho tiềm thức của Shinji,[70] trong khi Shinji mắc phức cảm Oedipus[76][77][78] và được đặc trưng bởi xung đột giữa libido (sinh lực) và destrudo (tử lực).[79] Tương tự, Ritsuko mang phức cảm Electra, trong đó cô yêu Gendō – người đóng vai trò thay thế cho hình mẫu người cha của cô.[80] Chính Anno tuyên bố rằng ông đồng nhất với Shinji cả ở phương diện ý thức lẫn vô thức,[81] trong khi Rei là "phần sâu thẳm nhất" của Anno và Kaworu đại diện cho mặt tối của ông.[82] Việc Shinji bước vào Unit-01 được diễn giải như sự "trở về bụng mẹ" theo thuyết Freud và cuộc đấu tranh để thoát khỏi Eva đại diện cho "nghi lễ trưởng thành" của cậu để trở thành người đàn ông.[83] Bộ phim cũng chứa các khảo chỉ về khái niệm triết học và phân tâm học, như giai đoạn môi miệng (oral stage), phóng chiếu nội tâm (introjection), nhân cách môi miệng (oral personality), mâu thuẫn và động lực tử thần (death drive),[84] bao gồm các yếu tố từ tác phẩm của Sigmund Freud,[85][86] Arthur Schopenhauer,[87][88] và Søren Kierkegaard.[89]
Phương tiện truyền thông liên quan
[sửa | sửa mã nguồn]Phim điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 5 năm 1996, Gainax công bố một bộ phim điện ảnh Evangelion[90] để đáp ứng sự bất mãn của người hâm mộ với cái kết của loạt phim. Ngày 15 tháng 3 năm 1997, Gainax phát hành Shin Seiki Evangerion Gekijō-ban: Shi to Shinsei – bao gồm 60 phút cảnh quay từ 24 tập đầu của loạt phim gốc và 30 phút đầu tiên của cái kết mới do vấn đề sản xuất.[91] Phần phim điện ảnh thứ hai – Ea/Magokoro o, Kimi ni ra mắt ngày 19 tháng 7 năm 1997, mang đến cái kết mới hoàn chỉnh như một phiên bản kể lại của hai tập cuối bộ phim truyền hình. Thay vì mô tả cao trào trong tâm trí các nhân vật, phim đưa ra giải pháp phân giải cốt truyện theo lối hành động truyền thống hơn. Phim giành được nhiều giải thưởng[92][93] và thu về 1,45 tỷ yên trong vòng sáu tháng sau khi phát hành.[94] Ex.org xếp phim ở vị trí thứ năm trong danh sách "Chương trình hay nhất mọi thời đại" năm 1999, còn loạt phim truyền hình xếp thứ hai.[95] Năm 2009, tạp chí CUT xếp Ea/Magokoro o, Kimi ni là phim điện ảnh anime hay thứ ba mọi thời đại.[96] Tháng 7 năm 1998, các phim được tái phát hành dưới dạng Revival of Evangelion, kết hợp Death(true)² (director's cut – bản cắt của đạo diễn cho Death) với Ea/Magokoro o, Kimi ni.
Một loạt phim hoạt hình mới có tên gọi Evangerion Shin Gekijō-ban do Gainax sản xuất cũng được thực hiện với bốn phim điện ảnh.[97] Phần phim đầu tiên kể lại sáu tập đầu từ loạt phim điện ảnh, nhưng từ phim thứ hai trở đi, cốt truyện thay đổi, giới thiệu các nhân vật, Eva và Angel mới. Phần phim đầu tiên – Evangelion Shin Gekijōban: Jo được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 9 năm 2007, trong khi Evangelion Shin Gekijōban: Ha ra rạp vào ngày 27 tháng 6 năm 2009 và Evangelion Shin Gekijōban: Q ra rạp vào ngày 17 tháng 11 năm 2012. Phần phim điện ảnh cuối – Shin Evangerion Gekijō-ban được phát hành vào ngày 8 tháng 3 năm 2021 sau hai lần trì hoãn.[98] Năm 2015, Evangelion:Another Impact (một phim ngắn đồ họa 3D do Aramaki Shinji làm đạo diễn, đồng thời là thành phẩm hợp tác của xưởng phim Khara và công ty truyền thông Dwango) được phát hành và phát trực tuyến dưới dạng phim ngắn anime thứ 12 từ Japan Animator Expo vào ngày 8 tháng 2. Phim mô tả "câu chuyện về kích hoạt, sự điên cuồng và tiếng hú của một Evangelion trong một thế giới khác".[99]
Manga và sách
[sửa | sửa mã nguồn]10 tháng trước khi phát sóng truyền hình Evangelion, nhà thiết kế nhân vật Sadamoto Yoshiyuki minh họa phiên bản manga của câu chuyện, ban đầu là một phần bổ trợ nhằm quảng bá cho bộ anime.[100] Tập đầu tiên của manga được xuất bản trong số tháng 2 của tạp chí Shōnen Ace vào tháng 12 năm 1994, với các phần tiếp theo được sản xuất không đều đặn trong suốt mười tám năm. Phần cuối cùng được xuất bản vào tháng 6 năm 2013.[101][102] Một số nhà xuất bản ban đầu lo ngại về việc lựa chọn Sadamoto phát triển bản chuyển thể manga, xem ông là "quá lỗi thời để có thể sinh lời".[103] 10 tập đầu tiên bán được hơn 15 triệu bản,[104] riêng tập thứ 11 đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Tohan[105] và bán thêm hai triệu bản. Bộ manga giành chiến thắng trong cuộc bầu chọn manga của người hâm mộ Comicker (1996).[106] Tác phẩm đã được chuyển thể thành một số bộ manga khác ngoài dự án gốc của Sadamoto, bao gồm Campus Apocalypse (một câu chuyện bí ẩn bỏ qua các đơn vị Evangelion) và Petit Eva: Evangelion@School (một loạt truyện chế được dựng hẳn thành bộ ONA dài tập riêng).
Âm nhạc và soundtrack
[sửa | sửa mã nguồn]Sagisu Shirō sáng tác phần lớn nhạc nền cho bộ phim. Các bản soundtrack được phát hành và giành vị trí cao trên bảng xếp hạng Oricon, với Neon Genesis Evangelion III đạt vị trí số một về doanh số bán hàng cao nhất năm 1997.[107] Cùng năm đó, Sagisu nhận giải thưởng Animation Kobe cho "Nhạc nền phim xuất sắc nhất" cho nhạc của tác phẩm Evangelion.[108] Các bản nhạc cổ điển của Ludwig van Beethoven,[55] Johann Sebastian Bach, Giuseppe Verdi and George Frideric Handel[71] cũng được sử dụng xuyên suốt bộ phim truyền hình và phim điện ảnh.
Các tác phẩm nhạc cổ điển bổ sung và sáng tác giao hưởng gốc được sử dụng để chấm điểm các bộ phim sau này được sản xuất trong loạt Shin Seiki Evangelion. Tổng cộng, danh mục đĩa của loạt tác phẩm bao gồm 21 album phòng thu, trực tiếp, tổng hợp và nhạc phim đầy đủ và sáu đĩa đơn CD. Bài nhạc chủ đề của bộ phim là "Zankoku na Tenshi no Tēze" do Takahashi Yōko thể hiện. Ca khúc cũng xuất hiện trong các cuộc thăm dò của TV Asahi, giành đạt vị trí thứ 55 cho các ca khúc chủ đề anime hay nhất mọi thời đại và thứ 18 cho các ca khúc chủ đề anime hay nhất của thập niên 1990.[109][110] 15 năm sau khi phát hành, ca khúc chủ đề này giành giải thưởng thường niên của Hiệp nhà quyền tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất bản Nhật Bản (JASRAC) cho tiền tác quyền mà bài hát tiếp tục tạo ra từ việc sử dụng trong pachinko, pachislo, karaoke và các tụ điểm ca nhạc khác.[111] Bài nhạc chủ đề kết phim là "Fly Me to the Moon", do Claire Littley và nhiều ca sĩ khác từ dàn diễn viên lồng tiếng chính trình bày.
Trò chơi điện tử
[sửa | sửa mã nguồn]Một số trò chơi điện tử dựa trên bộ phim được phát triển, trải dài từ các thể loại RPG và trò chơi phiêu lưu đến mạt chược và trò chơi bài. Bộ phim cũng cho ra đời các visual novel, trong đó hai tác phẩm đã truyền cảm hứng cho các bộ manga tập trung vào tình cảm và hài hước là Kōtetsu no Gārufurendo 2nd và Shinji Ikari Raising Project.
Các phiên bản phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Các ấn bản video gia đình gốc tại Nhật Bản bao gồm các bộ VHS và LaserDisc ược phát hành theo cấu trúc "Genesis 0:(số tập)", với mỗi ấn bản trong số 12 tập đầu chứa hai tập phim. Mỗi tập phim đều được chỉnh sửa nhỏ và các tập từ 21 đến 24 đã được kéo dài với các cảnh quay mới. "Genesis 0:13" và "Genesis 0:14" chứa phiên bản gốc và phiên bản thay thế của hai tập cuối lần đầu được trình chiếu trong Shin Seiki Evangelion Gekijō-ban: Ea/Magokoro o, Kimi ni. Một ấn bản thứ 15 và cũng là cuối cùng dành cho LaserDisc (có nhan đề "Genesis 0:X") chứa các phiên bản phát sóng của các tập từ 21 đến 24 và là ưu đãi đặc biệt qua thư dành cho những người hâm mộ đã mua tất cả 14 đĩa.[112][113]
Lần phát hành DVD đầu tiên tại Nhật Bản được trải đều trên bảy tập – tất cả đều chứa bốn tập phim, với tập thứ bảy chứa cả phiên bản gốc và phiên bản thay thế của hai tập cuối. Phiên bản này giống hệt với các bản phát hành trước đó trên LaserDisc và VHS. Các bộ phim cũng được phát hành dưới dạng một bộ đặc biệt như trước đây. Vào các năm 2000 và 2001, ba hộp set đã được phát hành để kỷ niệm sự kiện Second Impact hư cấu, vốn xảy ra vào năm 2000 trong loạt phim. Bộ đĩa Second Impact Box chứa các tập phim gốc và cả hai phim trên chín đĩa DVD – ba đĩa cho mỗi hộp. Các phiên bản này lần lượt là phiên bản chiếu trên truyền hình và phiên bản chiếu rạp gốc, và do đó có sự khác biệt so với lần phát hành DVD trước đó. Ngoài ra, trò chơi điện tử Girlfriend of Steel được đính kèm trong hộp đĩa thứ ba.[114][115]
Bộ DVD "Renewal of Evangelion" ồm chín tập chỉ dành riêng cho thị trường Nhật Bản được phát hành vào ngày 25 tháng 6 năm 2003,[116] với các hiệu ứng âm thanh được cải thiện, lời thoại được remix và nhạc nền được remaster cho âm thanh nổi 5.1. Tám tập đầu tiên bao gồm tập gốc, bao gồm hai phiên bản của các tập từ 21 đến 24: phiên bản video mở rộng có trong các lần phát hành trước và một phiên bản dựng lại của phiên bản chiếu trên truyền hình ngắn hơn, lần đầu tiên được phát hành kể từ đĩa LaserDisc Genesis 0:X và không bị kiểm duyệt như trong bản chiếu gốc. Tập chín chứa Death(true)², trong khi tập 10 chứa End of Evangelion (bỏ qua phần Rebirth).[117] Bản phát hành Renewal Project đã tạo nền tảng cho phiên bản "Platinum Edition" tại phương Tây. Ngày 1 tháng 12 năm 2014, Studio Khara thông báo một hộp đĩa Blu-ray chứa bản phục chế HD mới của loạt phim truyền hình, các phiên bản video của các tập từ 21 đến 24, cũng như hai bộ phim điện ảnh dưới cả dạng Revival of Evangelion (bản director's cut – vốn có trong các đĩa DVD Renewal) và các phiên bản chiếu rạp gốc của chúng là Death and Rebirth và The End of Evangelion.[118][119]
Một bộ DVD khác (có tên Archives of Evangelion) đã được thông báo, bộ đĩa này chứa phiên bản chiếu trên truyền hình gốc, chưa qua chỉnh sửa của tác phẩm cũng như phiên bản chiếu trên truyền hình của Death (True) & Rebirth đã lên sóng vào ngày 2 tháng 1 năm 1998. Cả hai bộ đĩa này được phát hành vào ngày 26 tháng 8 năm 2015, để kỷ niệm 20 năm ra mắt của bộ phim truyền hình.[120] Sau khi Gainax bị phá sản và đóng cửa vào khoảng thời gian giữa tháng 5 và tháng 6 năm 2024, Studio Khara (công ty hoạt hình hiện tại của Anno) đã chính thức giành được toàn bộ bản quyền của nhượng quyền Evangelion.[121][122]
ADV Films
[sửa | sửa mã nguồn]ADV Films là đơn vị phát hành loạt phim tại Bắc Mỹ và châu Âu. 13 băng VHS bằng tiếng Anh được phát hành từ ngày 20 tháng 8 năm 1996 đến 7 tháng 7 năm 1998, mỗi băng chứa hai tập phim và được đặt tên theo quy ước "Genesis 0:(số tập)" giống với lần phát hành video tại gia đầu tiên tại Nhật Bản. Hai bộ sưu tập LaserDisc đã được phát hành với các tên Collection 1 Deluxe Edition[123] (chứa 1-4 tập) và Collection 2 Deluxe Edition (chứa 5-8 tập).[124] Sản phẩm DVD đầu tiên của ADV Films là bộ Perfect Collection gồm 8 đĩa vào năm 2002 chứa các tập phim gốc.[125] Năm 2004, ADVADV phát hành hai bộ tổng hợp DVD có tên Neon Genesis Evangelion: Resurrection và Neon Genesis Evangelion: Genesis Reborn, bao gồm phiên bản director's cut của các tập từ 21 đến 24 và có cả các phiên bản gốc của các tập từ 21 đến 26.[126][127]
Phiên bản Platinum Edition được ADV thông báo vào năm 2004,[128] bao gồm bảy đĩa DVD[129] được phát hành từ ngày 27 tháng 7 năm 2004 đến ngày 19 tháng 4 năm 2005.[130] Platinum Edition chứa 26 tập gốc và bốn phiên bản "Director's cut"[131] của các tập từ 21 đến 24. Một phiên bản Platinum Edition (mang tên the Platinum Complete Edition) gồm 6 đĩa, được phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 2005 và đã lược bỏ một số nội dung bổ sung có trong các phiên bản khác, bao gồm bình luận và trailer.[132] Một phiên bản hộp thiếc Platinum Perfect Collection gồm bảy đĩa được phát hành vào ngày 27 tháng 11 năm 2007 và bao gồm các nội dung bổ sung đã bị lược bỏ trong Platinum Complete Edition.[133][134] Ngày 18 tháng 11 năm 2008, phiên bản DVD Holiday Edition gồm bảy đĩa được phát hành – là sản phẩm DVD cuối cùng của loạt phim do ADV Films phát hành.[135] Cuối tháng 11 năm 2011, loạt phim được thông báo là sẽ ngừng in ấn (hết hàng).[136]
Madman Anime
[sửa | sửa mã nguồn]Madman đã nắm giữ bản quyền của bộ phim từ năm 1998[137] tại New Zealand và Úc – nơi Evangelion được phát sóng bởi Special Broadcasting Service vào năm 1999.[138] Madman Anime cũng nắm giữ bản quyền phát hành video tại gia cho các tựa phim Evangerion Shin Gekijō-ban.[139]
Netflix
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 26 tháng 11 năm 2018, công ty phát trực tuyến Netflix thông báo đã mua được bản quyền phát trực tuyến toàn cầu cho bộ anime nguyên tác cùng với Evangelion: Death (True)² và The End of Evangelion để phát hành vào quý 2 năm 2019.[140] Ngày 22 tháng 3 năm 2019, Netflix thông báo ngày ra mắt các tựa phim này là 21 tháng 6 năm 2019.[141][142] Sau khi ADV Films giải thể vào cuối năm 2009,[143] bản phát hành trên Netflix bao gồm kịch bản do biên dịch viên nội bộ của Studio Khara là Dan Kanemitsu dịch lại[144][145] và một dàn diễn viên lồng tiếng Anh mới do Khara lựa chọn.[146] Bản lồng tiếng mới nhận được lời khen ngợi cho diễn xuất của các diễn viên, nhưng kịch bản mới lại vấp phải một số chỉ trích đã làm mờ đi tính chất trong mối quan hệ giữa hai nhân vật Shinji và Kaworu.[147][148] Bản phát hành trên Netflix đã loại bỏ bài hát "Fly Me to the Moon" ở các khu vực ngoài Nhật Bản do vấn đề bản quyền.[149][150]
Anime Limited và GKIDS
[sửa | sửa mã nguồn]On May 30, 2020, Ngày 30 tháng 5 năm 2020, nhà phân phối anime Anh Quốc Anime Limited thông báo đã giành được quyền phân phối video gia đình cho tựa phim gốc, Evangelion: Death (True)² và The End of Evangelion tại Vương quốc Anh và Ireland, với bản phát hành Ultimate Edition Blu-ray dự kiến ra mắt vào năm 2021, đánh dấu lần đầu loạt phim được phát hành quốc tế trên định dạng Blu-ray.[151] Ngày 3 tháng 10 năm 2020, nhà phân phối anime Bắc Mỹ GKIDS thông báo đã mua bản quyền tựa anime truyền hình gốc, Death (True)² và The End of Evangelion để phát hành video gia đình, chiếu rạp và tải kỹ thuật số, với một phiên bản Ultimate Edition dự kiến phát hành vào năm 2021, đánh dấu lần đầu nhượng quyền được phát hành Blu-ray tại Bắc Mỹ.[152][153] Ngày 30 tháng 8 năm 2021, GKIDS thông báo phát hành thêm phiên bản Collector's Edition và Standard bên cạnh phiên bản Ultimate Edition. Phiên bản Collector/Ultimate có "Phiên bản lồng tiếng và phụ đề cổ điển", tức bao gồm các bản lồng tiếng và phụ đề tiếng Anh từ ADV và Manga, trong khi phiên bản Standard chỉ bao gồm bản lồng tiếng và phụ đề tiếng Anh của Netflix. Bài hát "Fly Me to the Moon" không được đưa vào bất kỳ bản phát hành nào của GKIDS/All the Anime do vấn đề cấp phép. Phiên bản Standard được phát hành vào ngày 9 tháng 11 năm 2021, trong khi phiên bản Collector/Ultimate được phát hành vào ngày 8 tháng 12 năm 2021.[154][155] Ngày 2 tháng 11 năm 2021, GKIDS đã phát hành tựa phim truyền hình, Death (True)² và The End of Evangelion trên tất cả các dịch vụ tải xuống kỹ thuật số chính, sớm hơn sáu ngày so với ngày phát hành Blu-ray Standard.[156]
Đón nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Shin Seiki Evangelion đã nhận được sự đánh giá cao rộng rãi cả trong nước và quốc tế trong suốt thời gian lần đầu phát sóng và nhiều thập kỷ sau đó.[157][158][159] Trên trang tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim đạt tỷ lệ tán thành 100% dựa trên 31 bài đánh giá, với điểm trung bình là 8,3/10. Nhận xét chung của các chuyên gia trên website viết: "Shin Seiki Evangelion, vừa là một cột mốc văn hóa của Nhật Bản vừa là tầm nhìn tác giả không khoan nhượng của người sáng tạo Anno Hideaki, đồng thời là đỉnh cao quyến rũ của thể loại mecha anime và một cuộc khám phá đau đớn về bệnh trầm cảm – tạo nên một sử thi hoàn toàn độc đáo về những thiên thần và con dữ nội tâm."[160] Paste và IGN đã ghi danh Evangelion là một trong những tựa anime truyền hình hay nhất mọi thời đại.[161][162]
Sự "sâu sắc" của các nhân vật và cốt truyện "phức tạp và nhiều tầng ý nghĩa" đã nhận được lời khen ngợi từ các nhà phê bình.[163][164][165] Năm 1998, Max Autohead của tạp chí Hyper chấm phim điểm 10/10, ca ngợi "cốt truyện xuất sắc và tuyệt vời, với những nhân vật đáng kinh ngạc lôi cuốn bạn không chỉ vào thế giới của họ, mà còn vào cả tâm lý của họ".[166] Cùng năm, Shidoshi của GameFan chấm phim điểm A, gọi đây là một loạt phim "tuyệt vời".[167] Năm 2009, Mike Hale của The New York Times miêu tả phim là "một anime ưu tú – một câu chuyện về người máy khổng lồ với chiều sâu, cảm xúc và chi tiết khác thường."[168]
Sau khi kết thúc lần đầu loạt phim được phát sóng trên truyền hình, phản ứng từ công chúng và giới phê bình đối với Shin Seiki Evangelion bị chia rẽ,[169] đặc biệt là liên quan đến hai tập cuối. Phong cách thử nghiệm của đoạn kết đã khiến nhiều khán giả bối rối[170] hoặc xa lánh,[53][56] gây ra tranh luận và tranh cãi.[157][171] Phần lớn chỉ trích nhắm vào việc thiếu sự giải quyết cốt truyện trong hai tập cuối.[157] Do đó, ý kiến về đoạn kết rất khác nhau,[157] khán giả chia làm hai phe rõ rệt: nhóm người cho rằng các tập phim thành công trong việc khám phá nội tâm và nhóm người cảm thấy ý nghĩa của chúng "trông có vẻ sâu sắc hơn là thực sự sâu sắc".[172] Ngay cả các diễn viên lồng tiếng Anh cũng thừa nhận họ gặp khó khăn trong việc hiểu phần kết của loạt phim.[170] Mainichi Shimbun viết rằng sau khi tập áp chót lên sóng, "gần như tất cả khán giả cảm thấy bị phản bội... Khi bình luận viên Ōtsuka Eiji gửi thư đến tờ Yomiuri Shimbun để phàn nàn về kết thúc của bộ Evangelion, cuộc tranh luận đã lan ra toàn quốc."[173] Bất chấp những chỉ trích, Anno vẫn bảo vệ những lựa chọn nghệ thuật của mình cho phần kết của bộ phim.[157] Nhà phê bình Zac Bertschy nhận xét vào năm 2003 rằng "Phần lớn phản ứng ngược lại với Evangelion tồn tại vì mọi người không thích phải suy nghĩ".[174] Cuộc tranh cãi ban đầu xung quanh kết thúc của Evangelion cuối cùng không có ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến sự nổi tiếng của loạt phim.[157][175]
Evangelion đã phát triển thành một hiện tượng xã hội vượt ra ngoài cộng đồng người hâm mộ chính, tạo ra các cuộc thảo luận trên toàn quốc ở Nhật Bản. Bộ phim cũng là chủ đề của nhiều báo cáo truyền thông, tranh luận và nghiên cứu trên toàn thế giới.[176][49] Tác phẩm đã được các nhà phê bình, học giả và cả các nhà xã hội học đánh giá, bao gồm Susan J. Napier, William Rout, Mick Broderick, Kotani Mari,[177] Miyadai Shinji,[178] Azuma Hiroki,[50] Furuhata Yuriko và Marc Steinberg.[179] Bộ phim được mô tả vừa là một lời phê phán vừa là sự giải cấu trúc thể loại mecha.[7][180] Nhà phê bình người Nhật Tsuribe Manabu cho rằng Evangelion "cực kỳ hướng nội và thiếu tính xã hội, đến mức nó phản ánh sự bệnh hoạn của thời đại."[181] Theron Martin (Anime News Network) mô tả thiết kế nhân vật là "đặc sắc, được thiết kế để gợi cảm hơn là dễ thương" và thiết kế mecha là "một trong những thiết kế biệt nhất từng được sản xuất cho một tựa anime dài tập, với vẻ ngoài mảnh mai, thanh thoát trông hung dữ, đáng sợ và nhanh nhẹn thay vì cục mịch và giống hiệp sĩ".[182] Mike Crandol nhận định: "Giờ đây, không còn là cường điệu khi nói rằng Evangelion chắc chắn là một trong những tác phẩm hoạt hình vĩ đại nhất mọi thời đại".[169] Tháng 2 năm 2004, tạp chí Cinefantastique đã liệt kê anime này là một trong "10 tác phẩm hoạt hình thiết yếu".[183]
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Shin Seiki Evangelion đã đạt thứ hạng cao trong các cuộc thăm dò mức độ phổ biến. Năm 1996, bộ phim giành vị trí đầu tiên trong hạng mục "Loạt phim được yêu thích nhất" của Anime Grand Prix – một giải thưởng được độc giả bình chọn được đăng trên tạp chí Animage.[184] Phim một lần nữa được trao giải này vào năm 1997 với cách biệt lớn.[185] Ea/Magokoro o, Kimi ni giành giải nhất vào năm 1998,[186] biến Shin Seiki Evangelion trở thành nhượng quyền anime đầu tiên giành giải nhất ba năm liên tiếp.[187] Website IGN xếp Evangelion ở vị trí thứ 10 trong danh sách "Top 100 bộ hoạt hình truyền hình" của họ.[188] Bộ phim cũng đứng thứ ba trong danh sách "anime nên được ghi nhớ ở thế kỷ 21" của Animage.[189] Năm 1998, độc giả EX.org bình chọn Shin Seiki Evangelion là tác phẩm anime hay nhất phát hành ở Mỹ[187] và vào năm 1999, phim được bầu chọn là tác phẩm hay thứ hai mọi thời đại.[190] Năm 2007, một cuộc khảo sát quy mô lớn của TV Asahi bình chọn Evangelion là anime được đánh giá cao thứ hai tại Nhật Bản.[191] Loạt phim cũng được xếp hạng là phổ biến nhất mọi thời đại trong một cuộc khảo sát năm 2006 với 80.000 người tham dự tại Lễ hội Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản.[192]
Evangelion giành giải Animation Kobe vào các năm 1996[193] và 1997.[194] Bộ phim cũng được trao giải Nihon SF Taisho lần thứ 18 và giải Xuất sắc tại Lễ hội Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản lần thứ nhất (1997),[195][196] trong khi Ea/Magokoro o, Kimi ni xếp thứ sáu trong danh sách "Top 50 Anime phát hành tại Bắc Mỹ" của Wizard's Anime.[197] Trong số tháng 8 của Animage, các nhân vật của Evangelion xếp hạng cao trong bảng xếp hạng nhân vật xuất sắc nhất với Ayanami Rei đứng đầu, Asuka Langley Soryu thứ ba, Nagisa Kaworu thứ tư và Ikari Shinji thứ sáu. Rei giành chiến thắng ở hạng mục Nhân vật Nữ năm 1995 và 1996, còn Ikari Shinji giành chiến thắng hạng mục Nhân vật Nam vào các năm 1996 và 1997.[198] Năm 2010, tạp chí Newtype công nhận Rei là nhân vật nữ nổi tiếng nhất thập niên 1990, còn Shinji là nhân vật nam nổi tiếng nhất.[199] "Zankoku na Tenshi no Tēze" giành giải Animage ở hạng mục ca khúc xuất sắc nhất năm 1996,[184] và TV Asahi công nhận đây là ca khúc anime hay thứ 18 kể từ năm 1990.[200] TV Asahi cũng công nhận "cái chết của Ayanami Rei" là cảnh phim anime cảm động thứ chín mọi thời đại.[201]
Ảnh hưởng và di sản
[sửa | sửa mã nguồn]Evangelion đã có tác động sâu sắc và lâu dài đến ngành công nghiệp anime và văn hóa đại chúng Nhật Bản.[171][202] Tác phẩm được phát sóng vào thời điểm ngành công nghiệp anime và các bộ phim truyền hình đang trong giai đoạn trì trệ, Evangelion được ghi nhận là đã hồi sinh ngành công nghiệp và nâng cao tiêu chuẩn cho hoạt hình Nhật Bản chất lượng cao.[157] Nhà phê bình Tim Hornyak của CNET ghi nhận loạt phim đã hồi sinh và làm chuyển mình thể loại mecha khổng lồ. Vào những năm 1980 và 1990, hoạt hình Nhật Bản chứng kiến sản xuất giảm sút[203] sau sụp đổ kinh tế ở Nhật Bản,[204] mà sau đó là cuộc khủng hoảng ý tưởng trong những năm tới.[205] Trong bối cảnh đó, Evangelion đặt ra các tiêu chuẩn mới cho các bộ phim hoạt hình dài tập, mở ra kỷ nguyên của "phim hoạt hình dài tập Nhật Bản mới,"[206] đặc trưng bởi những đổi mới cho phép hồi sinh kỹ thuật và nghệ thuật của ngành công nghiệp. Việc sản xuất các bộ anime truyền hình bắt đầu phản ánh sự kiểm soát nghệ thuật lớn hơn, tập trung nguồn lực vào ít tập hơn nhưng chất lượng cao hơn (thường từ 13 đến 26 tập), hướng đạo diễn tương tự phim người thật đóng và tự do hơn khỏi những ràng buộc với các sản phẩm thương mại.[207]
Theo Iwata Keisuke, giám đốc điều hành kênh AT-X của TV Tokyo, sự lan rộng toàn cầu của hoạt hình Nhật Bản đã mở rộng đáng kể nhờ sự phổ biến của Evangelion.[209] Theo Roland Kelts, ở Nhật Bản, Evangelion thúc đẩy việc xem xét lại giá trị văn hóa của anime và thành công của nó,[210] làm cho phương tiện này trở nên dễ tiếp cận hơn với giới trẻ quốc tế.[211] Với sự quan tâm đến bộ phim, văn hóa otaku trở thành một hiện tượng xã hội đại chúng.[212][213] Việc phát lại thường xuyên tác phẩm đã làm tăng số lượng otaku,[214] trong khi John Lynden liên kết sự phổ biến của phim với sự bùng nổ quan tâm đến văn học về Các cuộn sách Biển Chết, Kabbalah và Kitô giáo.[215]
Các nhà phê bình đã ghi nhận ảnh hưởng của Evangelion đối với các bộ anime truyền hình sau này, chẳng hạn như Serial Experiments Lain, RahXephon, Texhnolyze, Gasaraki, Guilty Crown, Boogiepop Phantom,[71] Ao no Roku-gō,[216] Kidō Senkan Nadeshiko,[217] Rinne no Raguranje,[218] Gurren Lagann,[219] Dyuaru! Parare Runrun Monogatari,[220] Arujento Sōma,[221] Megami Kōhosei,[222] Jenereitā Gauru[223] và Chikyū Bōei Kigyō Dai Gādo.[224][225] Các chi tiết khảo chỉ, sự tôn kính và lời tri ân đến bộ phim ũng xuất hiện trong truyền thông Nhật Bản và phương Tây như Abenobashi Mahō Shōtengai,[226] Koi Koi Seven,[227] Chàng quản gia,[228] Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi,[229] Regular Show,[230] My Little Pony: Friendship is Magic,[231] Gravity Falls,[232] Sgt. Frog,[233][234] Rick và Morty,[235] One Hour Photo,[236] Steven Universe,[237] Kong: Đảo Đầu lâu[238] và Không.[239] Sự kết hợp giữa tôn giáo và mecha của loạt phim cũng ảnh hưởng đến trò chơi điện tử Nhật Bản, bao gồm Xenogears[240] và El Shaddai: Ascension of the Metatron.[241]
Thiết kế và đặc điểm tính cách của nhân vật Ayanami Rei đã được mô phỏng cho nhiều nhân vật anime và manga cuối những năm 1990, chẳng hạn như Hoshino Ruri (Nadesico), Tsukushima Ruriko (Droplet),[242] Miharu (Gasaraki),[243] Himemiya Anthy (Shōjo Kakumei Utena) và Lain Iwakura (Serial Experiments Lain).[244] Nhân vật Asuka đã bị Excel (Excel Saga) chế nhại[245] và một số đặc điểm của cô đã được sử dụng để tạo ra nhân vật Mai trong Gunparade March.[246] Theo nhà phê bình người Ý Guido Tavassi, thiết kế mecha của Evangelion (đặc trưng bởi sự tương đồng lớn hơn với hình dáng con người và thiết kế trừu tượng của các Angel) cũng có tác động đáng kể đến thiết kế của các sản xuất anime trong tương lai.[247] Watsuki Nobuhiro đã thiết kế một số nhân vật trong Rurouni Kenshin dựa trên các nhân vật từ Shin Seiki Evangelion, cụ thể là Usui Uonuma, Kamatari Honjō và Fuji.[248][249] Các nghệ sĩ khác cũng xem bộ phim như một nguồn cảm hứng, gồm đạo diễn anime điện ảnh Shinkai Makoto[250] và mangaka Akutami Gege – tác giả bộ manga Jujutsu Kaisen.[251] Sau Evangelion, Anno đã tái sử dụng các ý tưởng phong cách từ tác phẩm trong phim người đóng Love & Pop và bộ anime dài tập lãng mạn Kare Kano.[252] Shin Seiki Evangelion cũng ảnh hưởng đến các nghệ sĩ âm nhạc, chẳng hạn như ban nhạc Anh Fightstar (cùng album đầu tay Grand Unification)[252] và ban nhạc người Nhật Rey (đặt tên theo Ayanami Rei).[253]
Thương phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]— Tim Hornyak, CNET (16 tháng 7 năm 2013)[254]
Sự phổ biến của Shin Seiki Evangelion mở rộng sang lĩnh vực kinh doanh thương phẩm, đạt hơn 400 triệu đô la trong vòng hai năm sau khi phát hành.[74] Bộ phim đã khẳng định vị thế mạnh mẽ trên thị trường Nhật Bản, phát triển đa dạng các sản phẩm cho người tiêu dùng nhiều nhóm tuổi, như điện thoại di động,[255] laptop,[256] soundtrack, DVD,[257] action figure, thẻ điện thoại[258] và một bộ tiền xu chính thức của Nhật Bản.[259][260] Tuy nhiên, thiết kế mecha cách điệu ban đầu bị một số công ty đồ chơi chỉ trích là quá khó sản xuất,[261] một số lo ngại rằng mô hình các Evangelion "sẽ không bao giờ bán được."[262] Cuối cùng, Sega đồng ý cấp phép cho toàn bộ doanh số bán đồ chơi và trò chơi điện tử.[103] Vào thời điểm phát hành các tựa phim điện ảnh Death & Rebirth và The End of Evangelion, doanh số ước tính của thương phẩm về Evangelion đạt hơn 300 triệu đô la Mỹ (USD),[258] trong đó 70% đến từ doanh số bán video và đĩa laser,[263] CD đĩa đơn và soundtrack, phần mềm máy tính và manga ba tập.[258][264]
Việc khai thác thương mại của bộ phim cho thị trường video thuê tại gia đạt doanh số kỷ lục và vẫn duy trì mạnh mẽ hơn một thập kỷ sau đó.[265] Danh tiếng của chương trình đã phát triển thông qua doanh số bán video tại gia, vượt xa hai hoặc ba lần doanh số của các tựa anime điện ảnh và truyền hình đương thời khác.[266] Theo nhà phê bình anime Guido Tavassi, series đã đóng góp đáng kể vào việc phổ biến định dạng DVD tại Nhật Bản và có tác động đáng kể đến nền kinh tế Nhật Bản, ước tính lên tới hàng tỷ yên.[266] Năm 2006, Matt Greenfield tuyên bố nhượng quyền này đã kiếm được hơn 2 tỷ đô la Mỹ.[267] Một ước tính năm 2007 đặt tổng doanh số của 6.000 mặt hàng liên quan ở mức hơn 150 tỷ yên Nhật.[268][269] Đến năm 2015, hơn hai triệu máy pachinko và pachislot Evangelion đã được bán ra, tạo ra doanh thu 700 tỷ yên Nhật.[270]
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Phụ trách thiết kế và cốt truyện gốc. Tính tới năm 2025, đạo diễn Anno Hideaki được ghi công ở vị trí này và toàn bộ liên hệ tới Gainax đã bị loại bỏ trong các lần phát sóng lại tại Nhật Bản.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Creamer, Nick (ngày 10 tháng 7 năm 2019). "Neon Genesis Evangelion – Review". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2020.
- ^ "Neon Genesis Evangelion Platinum Complete Collection". ADV Films. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2018.
- ^ Loo, Egan (ngày 8 tháng 9 năm 2007). "Human-Sized Eva Spear Auctioned for 13.7 Million Yen". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Evangelion On PBS". Anime News Network. ngày 15 tháng 2 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2023.
- ^ Mays, Jonathan (ngày 28 tháng 1 năm 2013). "Evangelion, Nadesico, Dai-Guard, Robotech to Air on Cartoon Network". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2023.
- ^ Macdonald, Christopher (ngày 30 tháng 1 năm 2005). "Adult Swim Evangelion Date". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2023.
- ^ a b Haslem, Ndalianis & Mackie 2007, tr. 113.
- ^ Stojnic, Betty (ngày 29 tháng 11 năm 2021). "Boy with machine: A Deleuzoguattarian critique of Neon Genesis Evangelion". Journal of Anime and Manga Studies. 2: 27–56. doi:10.21900/j.jams.v2.822. hdl:2142/113396. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2025 – qua University Library, University of Illinois.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 147–160.
- ^ Kosukegawa, Yoichi (ngày 8 tháng 5 năm 1997). "Cartoon 'Eva' captures sense of void among Japanese youth". Japan Economic Newswire.
In the September 1996 issue of the Quick Japan information magazine, Hideaki Anno, the director of Evangelion, described Eva as a 'personal film,' each character reflecting part of his own personality.
- ^ a b Napier 2002, tr. 425.
- ^ Miller 2012, tr. 85.
- ^ Ishikawa 2007, tr. 76.
- ^ Evangelion: Death & Rebirth; End of Evangelion (DVD commentary track). Manga Entertainment.
- ^ a b c Sadamoto, Yoshiyuki (tháng 12 năm 1998) [1995]. "What were we trying to make here?". Neon Genesis Evangelion, Vol. 1. Essay by Hideaki Anno; translated by Mari Morimoto, English adaptation by Fred Burke. San Francisco: VIZ Media LLC. tr. 170–171. ISBN 978-1-56931-294-0.
- ^ Lee, Roderick. "Meet the voice of AD Vision: Amanda Winn". EX Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ a b c d e f "Interview with Sadamoto Yoshiyuki". Der Mond: The Art of Yoshiyuki Sadamoto – Deluxe Edition. Kadokawa Shoten. 1999. ISBN 978-4-04-853031-6.
- ^ Napier 2002, tr. 425–426.
- ^ Evangelion Chronicle (bằng tiếng Nhật). Quyển 4. Sony Magazines. tr. 5–8.
- ^ Graham, Miyako (tháng 11 năm 1996). "Anime Expo '96 interview". Protoculture Addicts. Số 43. tr. 40–41.
- ^ Lamarre 2009, tr. 204.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 39.
- ^ Lamarre 2009, tr. 180.
- ^ Takeda 2002, tr. 155–158.
- ^ Takeda 2002, tr. 164.
- ^ "Personal Biography". Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ Takeda 2002, tr. 15, 165–166.
- ^ a b Woznicki, Krystian (tháng 9 năm 1991). "Towards a cartography of Japanese anime – Anno Hideaki's Evangelion Interview with Azuma Hiroki". Blimp Filmmagazine. Tokuma Shoten.
- ^ Carl Gustav Horn (1997). "The mast or the face – Neon Genesis Evangelion". Trong Viz Media (biên tập). Animerica. Quyển 5. tr. 70.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 66.
- ^ Lamarre 2009, tr. 165.
- ^ a b Gainax (tháng 2 năm 1998). Neon Genesis Evangelion Newtype 100% Collection (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. tr. 87–88. ISBN 978-4-04-852700-2.
- ^ a b c Fujie & Foster 2004, tr. 9.
- ^ Napier 2002, tr. 424.
- ^ Murakami, Takashi (2005). Little Boy: The Arts Of Japan's Exploding Subculture. Yale University Press. tr. 70, 77. ISBN 978-0-300-10285-7.
- ^ Hornyak, Timothy N. (2006). 英文版ロボット: Loving the Machine. Kodansha International. tr. 69–72. ISBN 978-4-7700-3012-2.
- ^ Saito & Azuma 2009, tr. 94.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 76.
- ^ Ledoux, Trish (1997). Anime Interviews: The First Five Years of Animerica, Anime & Manga Monthly (1992–97). Viz Media. tr. 9. ISBN 978-1-56931-220-9.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 75.
- ^ Miller 2012, tr. 189.
- ^ Lamarre 2009, tr. 153-154.
- ^ Miller 2012, tr. 84.
- ^ Clements, Jonathan (2010). Schoolgirl Milky Crisis: Adventures in the Anime and Manga Trade. A-Net Digital LLC. tr. 124. ISBN 978-0-9845937-4-3.
- ^ a b c Horn, Carl G. "Speaking Once as They Return: Gainax's Neon Genesis Evangelion". Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ Takeda 2002, tr. 161–162.
- ^ Sanenari, Oizumi (1997). Anno Hideaki Schizo Evangerion (bằng tiếng Nhật). Ōta Shuppan. tr. 168–169. ISBN 978-4-87233-315-2.
- ^ Morrissy, Kim (ngày 30 tháng 12 năm 2019). "Hideaki Anno Details His Falling Out With Gainax". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
- ^ a b Thouny, Christophe (2009). "Waiting for the Messiah: The Becoming-Myth of "Evangelion" and "Densha otoko"". Mechademia. 4: 111. doi:10.1353/mec.0.0066. ISBN 978-0-8166-6749-9. S2CID 52219780. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b Azuma, Hiroki. "Animé or Something Like it: Neon Genesis Evangelion". NTT InterCommunication Center. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Eng, Lawrence. "In the Eyes of Hideaki Anno, Writer and Director of Evangelion". CJas.org. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ Inoue, Shinichiro (tháng 6 năm 1996). "Interview with Hideaki Anno". Newtype (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. tr. 162–177.
- ^ a b Camp & Davis 2007, tr. 19.
- ^ Haslem, Ndalianis & Mackie 2007, tr. 114.
- ^ a b Napier 2002, tr. 428.
- ^ a b Vice, Matthew. "DStv Pick of the week – Neon Genesis Evangelion : Monday, 15:45, Animax". The Times. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Return of the Otaking". J-pop.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2000. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ Saito & Azuma 2009, tr. 25.
- ^ Tavassi 2012, tr. 341–342.
- ^ Broderick, Mick (2002). "Anime's Apocalypse: Neon Genesis Evangelion as Millennarian Mecha". Gender, History, and Culture in the Asian Context. 7.
- ^ a b Ortega 2007, tr. 217–218.
- ^ Ortega 2007, tr. 220.
- ^ Tavassi 2012, tr. 247.
- ^ Grisar, PJ (ngày 13 tháng 8 năm 2021). "Is Kabbalah the key to understanding 'the greatest anime of all time'?". The Forward. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
- ^ Oguro, Yūichirō. "第47回 エヴァ雑記「第拾四話 ゼーレ、魂の座」". Style.fm (bằng tiếng Nhật). Anime Style. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
- ^ "Neon Genesis Evangelion – An Angelic Vision". ThingsAsian. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2014.
- ^ "Terminology". Death & Rebirth Program Book (Special Edition) (bằng tiếng Nhật). GAINAX. 1997. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2020.
- ^ "Interview mit Tsurumaki Kazuya (Studio GAINAX)" (bằng tiếng Đức). Anime No Tomodachi. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Owen Thomas. "Amusing Himself to Death: Kazuya Tsurumaki speaks about the logic and illogic that went into creating FLCL". Akadot.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2002. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
- ^ a b "Anno Hideaki". Jinken-official.jimdo.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
- ^ a b c Camp & Davis 2007, tr. 249.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 63.
- ^ Haslem, Ndalianis & Mackie 2007, tr. 123–124.
- ^ a b Wong, Amos (tháng 1 năm 1996). "Interview with Hideaki Anno, director of 'Neon Genesis Evangelion'". Aerial Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007.
- ^ "庵野 秀明 – Part II". 新世紀エヴァンゲリオン残酷な天使のように. マガジン・マガジン. 1997. ISBN 978-4-906011-25-4.
- ^ Sanenari, Oizumi (1997). Anno Hideaki Schizo Evangerion (bằng tiếng Nhật). Ōta Shuppan. tr. 86. ISBN 978-4-87233-315-2.
- ^ "Episode Commentaries". Platinum Edition Booklets. Quyển 7. A.D. Vision. 2005.
- ^ Wu, Justin (ngày 11 tháng 7 năm 2013). "Neon Genesis Evangelion: The Legacy of Rei Ayanami". The Artifice. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020.
- ^ Haslem, Ndalianis & Mackie 2007, tr. 116.
- ^ Poggio, Alessandra (2008). Neon Genesis Evangelion Encyclopedia (bằng tiếng Ý). Dynit. tr. 47.
- ^ "Virtual Panel! Meet Hideaki Anno". Animerica. Quyển 4 số 9. Viz Media. 1996. tr. 27.
- ^ 庵野秀明×上野峻哉の対談. Newtype Magazine (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. tháng 11 năm 1996.
- ^ Crandol, Mike (ngày 11 tháng 6 năm 2002). "Understanding Evangelion". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2014.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 175.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 147, 150.
- ^ "庵野 秀明 – Part I". Zankoku na tenshi no you ni. マガジン・マガジン. 1997. ISBN 978-4-906011-25-4.
- ^ Neon Genesis Evangelion Enciclopedia (bằng tiếng Ý). Dynit. 2008. tr. 10–11.
- ^ Oguro, Yūichirō. "第37回 エヴァ雑記「第四話 雨、逃げ出した後」" (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2020.
- ^ Tsuribe, Manabu (tháng 2 năm 1999). "Prison of Self-Consciousness: an Essay on Evangelion". www001.upp.so-net.ne.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2017.
- ^ "Gainax Official News". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 1996. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ Tavassi 2012, tr. 275.
- ^ Horn, Carl. "My Empire of Dirt". J-pop.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 1999.
- ^ "Animation Kobe 1997: An Attendee's Report". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2000.
- ^ "Evangelion: 1.0 is Now Top Grossing Eva Movie". Anime News Network. 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2017.
- ^ "Press". tháng 5 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2017.
- ^ "An Eternal Thought in the Mind of Godzilla". Patrick Macias. ngày 18 tháng 11 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2009.
- ^ "Rebuild of Evangelion". Gainax. ngày 10 tháng 9 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2006.
- ^ Pineda, Rafael Antonio (ngày 9 tháng 3 năm 2021). "Final Evangelion Film's 1st Day Sells Over 530,000 Tickets for Over 800 Million Yen". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2021.
- ^ "'Evangelion:Another Impact' Short by Appleseed's Aramaki Streamed". Anime News Network. ngày 2 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
- ^ Alverson, Brigid (ngày 20 tháng 6 năm 2019). "An Introduction to the Neon Genesis Evangelion Manga". Barnes & Noble. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2020.
- ^ "貞本義行『新世紀エヴァンゲリオン』ついに完結!". Gainax. ngày 24 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
- ^ "新世紀エヴァンゲリオン : 貞本版マンガ最終回が再掲載 安野モヨコらの祝福コメントも". Mantan-web.jp. ngày 4 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2006.
- ^ a b Takeda 2002, tr. 167.
- ^ "9–9–06 (8:55AM EDT)---- Further Evangelion Shin Gekijou Ban Details". Anime News Service. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012.
- ^ "News: Japanese Comic Ranking, March 29 – April 4". Anime News Network. ngày 7 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Carl Gustav Horn explains how the Angels are coming to America". Viz Media. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012.
- ^ Horn, Carl Gustav. "Anno Mirabilis". J-pop.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
- ^ "Animation Kobe 1997: An Attendee's Report". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2000. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010.
- ^ "忘れられないアニメソングベスト100 シネマでぽん!S cinema-game-toy/ウェブリブログ". ngày 3 tháng 8 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
- ^ "決定!これが日本のベスト". Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
- ^ "Songs From Evangelion, Other Anime Win JASRAC Awards – News". Anime News Network. ngày 7 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2012.
- ^ "Neon Genesis Evangelion LaserDisc Genesis 0:14". Pustan. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
- ^ "Pustan – Neon Genesis Evangelion COMPLETE Series LD's". Pustan. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
- ^ "Second Impact Box". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Evangelion – Second Impact Box". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Evangelion". Gainax, Project Eva. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ Data of Evangelion (bằng tiếng Nhật). Gainax. 2003. tr. 5.
- ^ "Evangelion Gets New Japanese Blu-Ray, DVD Boxes". Anime News Network. ngày 1 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Green, Scott (ngày 1 tháng 12 năm 2014). ""Evangelion" TV Series and Movies Remastered for Blu-ray Boxes". Crunchyroll. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ "Neon Genesis Evangelion's New Japanese Blu-ray & DVD Sets Outlined". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
- ^ "Notice". Gainax (bằng tiếng Nhật). ngày 7 tháng 6 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
- ^ "Regarding the news from Gainax Co., Ltd". Khara. ngày 7 tháng 6 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
- ^ "A.D.V. Films News". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 1996. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "A.D.V. Films News". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 1997. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ Beveridge, Chris (ngày 22 tháng 3 năm 2002). "Neon Genesis Evangelion Perfect Collection Box Set". AnimeOnDVD. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2024.
- ^ Beveridge, Chris (ngày 19 tháng 1 năm 2004). "Neon Genesis Evangelion: Directors' Cut: Resurrection". AnimeOnDVD. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2024.
- ^ Beveridge, Chris (ngày 2 tháng 3 năm 2004). "Neon Genesis Evangelion: Directors' Cut: Genesis Reborn". AnimeOnDVD. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2024.
- ^ "ADV Films Announces Neon Genesis Evangelion – Platinum Edition". Anime News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ "Neon Genesis Evangelion Platinum". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Neon Genesis Evangelion Platinum – Volume 7". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Neon Genesis Evangelion Platinum – Volume 1". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Neon Genesis Evangelion Platinum – Complete Edition". ADV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "ADV Announces November 27 Titles". Anime News Network. ngày 27 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
- ^ "Neon Genesis Evangelion – Platinum: Perfect Collection". Amazon.com. ngày 27 tháng 11 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
- ^ "Neon Genesis Evangelion: Complete Platinum Collection (Limited Edition Holiday Special)". Amazon.com. ngày 18 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
- ^ "U.S. Evangelion TV DVD Release Going Out of Print". Anime News Network. ngày 29 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
- ^ Johnson, Travis (ngày 31 tháng 10 năm 2016). "20 Years Of Madman Entertainment". Film Ink. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Carl Gustav Horn, biên tập (ngày 4 tháng 1 năm 2011). "Misato's Fan Service Center". Neon Genesis Evangelion: The Shinji Ikari Raising Project. Quyển 7. Dark Horse Manga. tr. 117. ISBN 978-1-59582-595-7.
Evangelion premiered January 2, 1999, on Australia's national SBS, a then-broadcast-only service roughly comparable to America's PBS.
- ^ "Evangelion: 3.33 You Can (Not) Redo is Available Now!". Madman Entertainment. ngày 10 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
- ^ Antonio Pineda, Rafael (ngày 27 tháng 11 năm 2018). "Netflix to Stream Evangelion Series, Death & Rebirth, End of Evangelion Films Next Spring". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ Goslin, Austen (ngày 22 tháng 3 năm 2019). "Neon Genesis Evangelion officially arrives to Netflix this June". Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
- ^ Pineda, Rafal Antonio (ngày 22 tháng 3 năm 2019). "Netflix Adds Evangelion Anime Worldwide on June 21". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
- ^ Patches, Matt (ngày 21 tháng 6 năm 2019). "Netflix's Neon Genesis Evangelion debuts English re-dub". Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ "Japanese Fans, Official Translator Weigh in on Netflix Evangelion English Subtitle Debate". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2019.
- ^ "Kanemitsu's website". translativearts.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2021.
- ^ Sevakis, Justin (ngày 26 tháng 6 năm 2019). "Answerman – How Much Control Do Japanese Producers Have Over Dubs and Subtitles?". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2019.
- ^ Romano, Aja (ngày 24 tháng 6 năm 2019). "Netflix's re-translation of Neon Genesis Evangelion is drawing backlash for queer erasure". Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2024.
- ^ Vilas-Boas, Eric (ngày 27 tháng 6 năm 2019). "Neon Genesis Evangelion Is Finally on Netflix. So Why Are Some Fans Upset?". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2024.
- ^ Maas, Jennifer (ngày 21 tháng 6 năm 2019). "Why Netflix Cut 'Fly Me to the Moon' From 'Neon Genesis Evangelion' Credits". The Wrap. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ Gonzalez, Oscar (ngày 21 tháng 6 năm 2019). "Neon Genesis Evangelion on Netflix erases iconic 'Fly Me to the Moon' outro". CNET. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019.
- ^ All The Anime [@AllTheAnime] (ngày 30 tháng 5 năm 2020). "Just announced at #CloudMatsuri... Coming in 2021 to Ultimate Edition Blu-ray Neon Genesis #Evangelion The original 26 episodes TV series Plus the two movies: "The End of Evangelion" and " Neon Genesis Evangelion Death (true)²" Full details will follow later this year" (Tweet). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020 – qua Twitter.
- ^ "GKIDS Licenses Evangelion TV Series & Death (True)², End of Evangelion Films for Blu-ray, Digital Download". Anime News Network. ngày 3 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ Saabedra, Humberto. "GKIDS Films Launches Countdown For Neon Genesis Evangelion: The Ultimate Edition Pre-Order". Crunchyroll (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
- ^ Anderson, Kyle (ngày 30 tháng 8 năm 2021). "Nen Genesis Evangelion Getting a Fancy Home Release". Nerdist. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2021.
- ^ "Neon Genesis Evangelion". GKIDS Films. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2021.
- ^ Luster, Joseph. "Original Neon Genesis Evangelion Anime and Films Now Available on Digital". Crunchyroll. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.
- ^ a b c d e f g Eng, Lawrence. "A look at "The Four Revolutions of Anime"". CJas.org. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "SmaSTATION!!". Tv-asahi.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Evangelion: 3.0 You Can (Not) Redo is Coming to Theaters Across the U.S. and Canada in January 2014". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Neon Genesis Evangelion: Season 1". Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
- ^ Jones, Austin; Paste Staff (ngày 15 tháng 1 năm 2024). "The 35 Best Anime of All Time". Paste. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2024.
- ^ IGN Staff (ngày 22 tháng 9 năm 2022). "Top 25 Best Anime Series of All Time". IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2024.
- ^ McCarter, Charles. "Everywhere FLCL". EX Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
- ^ Lee, Roderick. "Interview: Takagi Shinji". EX Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
- ^ Harris, Jeffrey (ngày 3 tháng 12 năm 2007). "Neon Genesis Evangelion: Platinum Boxset DVD Review". IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Autohead, Max (tháng 11 năm 1998). "Neon Genesis Evangelion". Hyper. Số 61. tr. 102–3.
- ^ "AnimeFan". GameFan. Quyển 6 số 5. tháng 5 năm 1998. tr. 84–91.
- ^ Hale, Mike (ngày 18 tháng 9 năm 2009). "Evangelion 1.0: You Are (Not) Alone (2007)". The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
{{Chú thích báo}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ a b Crandol, Mike. "Review – Neon Genesis Evangelion DVD 1: Platinum Edition". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b "Otakon Highlights – Evangelion Voice Actors – Aug. 7, 1998". Fansview.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b Fujitani, T T. (2001). Perilous Memories: The Asia-Pacific War(s). Duke University Press. tr. 147. ISBN 978-0-8223-8105-1.
- ^ Solomon, Charles (ngày 10 tháng 4 năm 2002). "Anime Series Draws on a World of Alienation". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
- ^ Watanabe, Kei; Nakagawa, Daichi; Uno, Tsunehiro (ngày 18 tháng 5 năm 2006). "Evangelion Special: From phenomenon to legacy". Mainichi Times. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ Bertschy, Zac. "Review – Arjuna DVD 3". Anime News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Heusser, Martin (2005). Word and Image Interactions 4. Rodopi. tr. 114. ISBN 978-90-420-1837-2.
- ^ Ishikawa 2007, tr. 71.
- ^ Napier 2002, tr. 444.
- ^ Ishikawa 2007, tr. 84.
- ^ Hiroki, Azuma; Furuhata, Yuriko; Steinberg, Marc (2007). "The Animalization of Otaku Culture". Mechademia. 2: 174–187. doi:10.1353/mec.0.0023. ISBN 978-0-8166-5266-2. S2CID 121858305.
- ^ Napier, Susan J. (2005). Anime – From Akira to Howl's Moving Castle. St. Martin's Publishing. tr. 96–97. ISBN 978-1-4039-7052-7.
- ^ "Prison of Self-consciousness: an Essay on Evangelion". www001.upp.so-net.ne.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
- ^ Martin, Theron. "Review – Neon Genesis Evangelion DVD 3: Platinum Edition". Anime News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Persons, Dan (February–March 2004). "The Americanization of Anime: 10 Essential Animations". Cinefantastique. Quyển 36 số 1. tr. 48. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
- ^ a b 第18回アニメグランプリ [1996年5月号]. Animage (bằng tiếng Nhật). Tokyo, Japan.: Tokuma Shoten. tháng 5 năm 1995. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ 第19回アニメグランプリ [1997年6月号]. Animage (bằng tiếng Nhật). Tokyo, Japan: Tokuma Shoten. tháng 6 năm 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ 第20回アニメグランプリ [1998年6月号]. Animage (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b "EX Media". Ex.org. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Neon Genesis Evangelion". IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
- ^ "More details Regarding Animage Top 100". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "EX Media". Ex.org. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Japan's Favorite TV Anime". Tv-asahi.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ 文化庁メディア芸術祭10周年企画アンケート日本のメディア芸術100選 結果発表 (bằng tiếng Nhật). Japan Media Arts Plaza. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
- ^ "Animation Kobe winners" (bằng tiếng Nhật). Animation Kobe Organizing Committee. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ "Animation Kobe 1997: An Attendee's Report" (bằng tiếng Nhật). Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2000. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
- ^ "'Neon Genesis Evangelion' Honored at Japan SF Awards". Gainax. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2015.
- ^ "Japan Media Arts Festival awards". Japan Media Arts Plaza. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
- ^ "Wizard lists Top 50 Anime". Anime News Network. ngày 6 tháng 7 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
- ^ 1996年08月号ベスト10. Animage (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ "With NT, 1/4 century". Newtype Magazine (bằng tiếng Nhật). Số 3. Kadokawa Shoten. 2010.
- ^ "1990年代以降アニメソング ベスト20". Tv-asahi.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "最終回を越える感動シーン部門". Tv-asahi.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ Azuma 2009, tr. 4.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 55.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 60.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 105.
- ^ Fontana & Donati 2013, tr. 141.
- ^ Tavassi 2012, tr. 247–248.
- ^ Tatsumi, Inui (ngày 6 tháng 3 năm 2015). "The Expanding Cosplay Universe". Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2017.
- ^ "TV Tokyo's Iwata Discusses Anime's 'Road to Survival'". Anime News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Colombo, Fausto (2005). Atlante della comunicazione: cinema, design, editoria, internet, moda, musica, pubblicità, radio, teatro, telefonia, televisione (bằng tiếng Ý). Hoepli Editore. tr. 39. ISBN 978-88-203-3359-1.
- ^ Kelts, Roland (2006). Japanamerica: How Japanese Pop Culture Has Invaded the U.S.. Palgrave Macmillan. tr. 112. ISBN 978-0-230-60203-8.
- ^ Azuma 2009, tr. 117.
- ^ Levi, Antonia; McHarry, Mark; Pagliassotti, Dru (2010). Boys' Love Manga: Essays on the Sexual Ambiguity and Cross-cultural Fandom of the Genre. McFarland. tr. 260. ISBN 978-0-7864-4195-2.
- ^ Lunning, Frenchy (2010). Fanthropologies. University of Minnesota Press. tr. 215–216. ISBN 978-0-8166-7387-2.
- ^ Lyden, John (2009). The Routledge Companion to Religion and Film. Taylor & Francis. tr. 208. ISBN 978-0-415-44853-6.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 184–185.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 123.
- ^ Hale, Mike (ngày 24 tháng 2 năm 2012). "Watchlist: 'Lagrange,' Anime With Echoes of 'Evangelion'". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ "Dig For Fire: The Roots of Gurren Lagann". Anime News Network. ngày 7 tháng 9 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2018.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 167.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 126.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 490.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 106.
- ^ Fontana & Donati 2013, tr. 137.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 120.
- ^ Fontana & Tarò 2007, tr. 161.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 346.
- ^ Martin, Theron (ngày 4 tháng 12 năm 2006). "Hayate the Combat Butler". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
- ^ Martin, Theron (ngày 23 tháng 9 năm 2011). "Baka and Test". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
- ^ Lamb, Lynzee (ngày 10 tháng 4 năm 2015). "Neon Genesis Evangelion Opening Parodied on Regular Show". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
- ^ O'Melia, Gina (2019). Japanese Influence on American Children's Television: Transforming Saturday Morning. Springer. tr. 209. ISBN 978-3-030-17415-6.
- ^ Peduzzi, Andrea (ngày 6 tháng 4 năm 2020). "Gravity Falls, ricordo di un'estate pazzesca" (bằng tiếng Ý). IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2020.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 575.
- ^ Tavassi 2012, tr. 400.
- ^ "'Rick and Morty' Season 5 Episode 7: The Power Rangers Mafia". News Week. ngày 2 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.
- ^ Aston, Ryan (ngày 23 tháng 4 năm 2021). "The One Hour Photo Prop That Actually Belonged To Robin Williams". Looper. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2022.
- ^ Chapman, Jacob (ngày 31 tháng 7 năm 2015). "Why Are Anime Fans Obsessed with Steven Universe?". Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2025.
- ^ "DIRECTOR JORDAN VOGT-ROBERTS ON WHY 'KONG: SKULL ISLAND' IS UNLIKE ANY OTHER 'KING KONG' MOVIE". Fandango. ngày 17 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2022.
- ^ "This Influential Anime Inspired The Final Alien Design". Slashfilm. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2022.
- ^ Takahashi, Rika. "Xenogears". EX Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2013.
The game starts with a stunning full motion video sequence that feels rather reminiscent of Neon Genesis Evangelion.
- ^ Leigh, Alexander. "Interview: Beautiful, Creative El Shaddai Is Daring To Be Weird". Gamasutra. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2013.
Not only does El Shaddai—the name of which features the secondary title Ascension of the Metatron—feature a variety of gameplay types and level styles, but it borrows from a number of aesthetic influences. These'll be familiar to fans of popular Japanese anime like Neon Genesis Evangelion ...
- ^ Azuma 2009, tr. 49–50.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 221.
- ^ Saito & Azuma 2009, tr. 125.
- ^ Telotte, J. P. (2008). The Essential Science Fiction Television Reader. University Press of Kentucky. tr. 133. ISBN 978-0-8131-2492-6.
- ^ Clements & McCarthy 2006, tr. 259–260.
- ^ Tavassi 2012, tr. 248.
- ^ Watsuki, Nobuhiro (2005). Rurouni Kenshin, Volume 14. Viz Media. tr. 66. ISBN 978-1-5911-6767-9.
- ^ Watsuki, Nobuhiro (2005). Rurouni Kenshin, Volume 15. Viz Media. tr. 86, 126. ISBN 978-1-5911-6810-2.
- ^ Kelts, Roland (ngày 17 tháng 2 năm 2012). "Shinkai engages intl anime fans". The Daily Yomiuri. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2012.
- ^ "Gege Akutami : "Pour le héros de mon manga, je me suis inspiré de mon frère"" (bằng tiếng Pháp). Le Figaro. ngày 7 tháng 10 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ a b Clements & McCarthy 2006, tr. 185.
- ^ "イケメンアニソンバンドがメジャーデビュー". Oricon.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2013.
- ^ Hornyak, Tim (ngày 16 tháng 7 năm 2013). "Is 'Pacific Rim' a retelling of Japanese anime 'Evangelion'?". CNET. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.
- ^ "Docomo shows off NERV edition SH-06D Evangelion phone". The Verge. ngày 3 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
- ^ Poitras, Gilles (2001). Anime Essentials: Every Thing a Fan Needs to Know. Stone Bridge Press. tr. 27. ISBN 978-1-880656-53-2.
- ^ Sony Magazines. エヴァンゲリオン・クロニクル – Evangelion Chronicle. Quyển 1. DeAgostini Japan. tr. 29–32. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2007.
- ^ a b c Fujie & Foster 2004, tr. 142.
- ^ The Mainichi (ngày 27 tháng 8 năm 2020). "Coin sets celebrating 25 years of Evangelion to be issued". The Mainichi. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2020.
- ^ The coins can be viewed close-up at the Japan Mint site "Evangelion 2020 Proof Coin Set". Japan Mint Online Shop. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2020.
- ^ Fujie & Foster 2004, tr. 97.
- ^ Takeda 2002, tr. 166–167.
- ^ "Two Big Anime Movies this Summer!". Nkkei Entertainment. ngày 1 tháng 8 năm 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
- ^ Doi, Hitoshi (ngày 8 tháng 3 năm 1997). "Evangelion re-runs". Usagi.org. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
- ^ Macwilliams 2008, tr. 57.
- ^ a b Tavassi 2012, tr. 259.
- ^ Greenfield, Matt (ngày 2 tháng 4 năm 2006). Evangelion – 10 years of Death and Re:Birth (Diễn văn). Pittsburgh, Pennsylvania. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
- ^ "「ヱヴァ」総監督 劇場で"緊急声明"". Sponichi Annex. ngày 12 tháng 2 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
- ^ Tavassi 2012, tr. 476.
- ^ "The Future of Fields". ONLINE ANNUAL REPORT 2015. Fields Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
{{Chú thích báo}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
Tài liệu tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Azuma, Hiroki (2009). Otaku: Japan's Database Animals. University of Minnesota Press. ISBN 978-0-8166-5351-5.
- Camp, Julie; Davis (2007). Anime Classics Zettai!: 100 Must-See Japanese Animation Masterpieces. Stone Bridge Press, Inc. ISBN 978-1-933330-22-8.
- Clements, Jonathan; McCarthy, Helen (2006). The Anime Encyclopedia: A Guide to Japanese Animation Since 1917 – Revised & Expanded Edition. Berkeley: Stone Bridge Press. ISBN 978-1-933330-10-5.
- Fontana, Andrea; Tarò, Davide (2007). Anime. Storia dell'animazione giapponese 1984–2007 (bằng tiếng Ý). Il Foglio Letterario. ISBN 978-88-7606-160-8.
- Fontana, Davide; Donati, R. (2013). La bomba e l'onda. Storia dell'animazione giapponese da Hiroshima a Fukushima (bằng tiếng Ý). Bietti. ISBN 978-88-8248-282-4.
- Fujie, Kazuhisa; Foster, Martin (2004). Neon Genesis Evangelion: The Unofficial Guide. United States: DH Publishing, Inc. ISBN 978-0-9745961-4-3.
- Haslem, Wendy; Ndalianis, Angelaa; Mackie, Chris (2007). Super/Heroes: From Hercules to Superman. New Academia Publishing. ISBN 978-0-9777908-4-5.
- Ishikawa, Satomi (2007). Seeking the Self: Individualism and Popular Culture in Japan. Peter Lang. ISBN 978-3-03910-874-9.
- Lamarre, Thomas (2009). The Anime Machine: A Media Theory of Animation. University of Minnesota Press. ISBN 978-0-8166-5155-9.
- Macwilliams, Mark Wheeler (2008). Japanese Visual Culture: Explorations in the World of Manga and Anime. M. E. Sharpe. ISBN 978-0-7656-3308-8.
- Miller, Gerald Alva Jr. (2012). Exploring the Limits of the Human Through Science Fiction. Palgrave Macmillan. ISBN 978-1-137-26285-1.
- Napier, Susan J. (tháng 11 năm 2002). "When the Machines Stop: Fantasy, Reality, and Terminal Identity in Neon Genesis Evangelion and Serial Experiments Lain". Science Fiction Studies. 29 (88): 418–435. doi:10.1525/sfs.29.3.0418. ISSN 0091-7729. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007.
- Ortega, Mariana (2007). "My Father, He Killed Me; My Mother, She Ate Me: Self, Desire, Engendering, and the Mother in Neon Genesis Evangelion". Mechademia. 2: 216–232. doi:10.1353/mec.0.0010. ISBN 978-0-8166-5266-2. S2CID 120554645.
- Saito, Tamak; Azuma, Hiroki (2009). Beautiful Fighting Girl. University of Minnesota Press. ISBN 978-0-8166-5450-5.
- Takeda, Yasuhiro (2002). The Notenki memoirs: studio Gainax and the men who created Evangelion. ADV Manga. ISBN 978-1-4139-0234-1.
- Tavassi, Guido (2012). Storia dell'animazione giapponese: Autori, arte, industria, successo dal 1917 ad oggi (bằng tiếng Ý). Tunué. ISBN 978-88-97165-51-4.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Drazen, Patrick (2014). Anime Explosion! – The What? Why? & Wow! of Japanese Animation. Stone Bridge Press. ISBN 978-1-61172-013-6.
Evangelion
- Endo, Toru (1997). "Konna kitanai kirei na hi ni wa" [Vào một ngày thật đẹp và cũng thật xấu xí]. Poppu karuchaa kuritiiku [Phê bình văn hóa đại chúng] (bằng tiếng Nhật). Quyển 0.
- Gainax (ngày 25 tháng 12 năm 1997). "E-Mono: Neon Genesis Evangelion: All Goods Catalog". Newtype (bằng tiếng Nhật). ISBN 978-4-04-852868-9.
- "Neon Genesis Evangelion June Tokuhon: Zankoku-Na Tenshi no These" [Độc giả [tạp chí] June của Neon Genesis Evangelion: Luận đề của Thiên thần Tàn khốc]. June (bằng tiếng Nhật). 1997. ISBN 978-4-906011-25-4.
- Mari, Kotani (1997). Seibo Evangelion [Evangelion như là Trinh nữ Vô nhiễm]. Tokyo: Magajin Hausu.
- Kotani, Mari (1997). A New Millennialist Perspective On The Daughters Of Eve [Một góc nhìn Thiên niên kỷ mới về những người con gái của Eve] (bằng tiếng Nhật). Magajin Hausu. ISBN 978-4-8387-0917-5.
- Lippit, Seiji M (2000). Topographies of Japanese Modernism [Địa hình học của Chủ nghĩa Hiện đại Nhật Bản] (bằng tiếng Anh). New York: Columbia UP.
- Morikawa, Kaichiro (1997). The Evangelion Style [Phong cách của Evangelion]. Nhà xuất bản Đại học Meiji. ISBN 978-4-8074-9718-8.
- Yamashita, Ikuto; Seiji, Kio (1998). Sore Wo Nasumono: Neon Genesis Evangelion Concept Design Works [Sore Wo Nasumono: Công trình Thiết kế Khái niệm của Neon Genesis Evangelion] (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. ISBN 978-4-04-852908-2.
- "Evangelion Special: Genesis of a major manga" [Evangelion Đặc biệt: Sự Khởi đầu của một bộ manga lớn]. Mainichi Daily News (bằng tiếng Nhật). ngày 4 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2025.
- "Understanding Evangelion" [Tìm hiểu về Evangelion] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. ngày 13 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2025.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Website chính thức
[sửa | sửa mã nguồn]- Neon Genesis Evangelion—trang Evangelion chính thức của Gainax (bằng tiếng Nhật)
- Madman Entertainment Evangelion
- 新世紀エヴァンゲリオン Lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2012 tại Wayback Machine—King Records Evangelion (bằng tiếng Nhật)
Bài viết và thông tin
[sửa | sửa mã nguồn]- Shin Seiki Evangelion trên Internet Movie Database
- Neon Genesis Evangelion (anime) tại từ điển bách khoa của Anime News Network